Tên thường gọi: Bệnh bạc lá, cháy bìa lá
Tên khoa học: Xanthomonas oryzae
Các loại cây trồng bị bệnh: Lúa nước
Nguyên nhân gây bệnh bạc lá lúa là gì?
Một số nguyên nhân khiến cây lúa bị bệnh bạc lá như sau:
- Giống lúa mẫn cảm với bệnh bạc lá (chẳng hạn như một số giống tạp giao và một số giống chất lượng)
- Do thời tiết nóng ẩm, gặp mưa to gió lớn khi cây lúa đang ở giai đoạn cần quang hợp cao.
- Do làm đất không kỹ, cây lúa bị nhiễm bệnh vàng lá sau lập thu, bón thêm phân cấp cứu vàng lá, cây lúa ra lớp rễ mới phát triển lá non nên gặp mưa dông dễ nhiễm bệnh bạc lá.
- Do bón thừa nhiều đạm, bón muộn, bón lai rai, không cân đối giữa đạm – lân – kali, những ruộng trũng hẩu dồn đạm cuối vụ,
- Do biện pháp thâm canh gieo cấy, chăm bón không đúng kỹ thuật.
Triệu chứng gây hại của bệnh bạc lá lúa
Bệnh bạc lá lúa phát sinh phá hại suốt thời kỳ mạ đến khi lúa chín, nhưng có triệu chứng điển hình là thời kỳ lúa cấy tren ruộng từ sau khi lúa đẻ - trỗ - chín - sữa.
- Vết bệnh triệu chứng bạc lá lúa giai đoạn mạ: Triệu chứng gây bệnh không đặc trưng như trên lúa, do đó dễ nhầm lẫn với các hiện tượng khô đầu lá lúa do sinh lý. Vi khuẩn hại mạ gây ra triệu chứng ở mép lá, mút lá với những vệt có độ dài ngắn khác nhau, có màu xanh vàng, nâu bạc rồi khô xác.
- Vết bệnh triệu trứng bạc lá lúa trên cây lúa giai đoạn sinh trưởng: Triệu chứng bệnh biểu hiện rõ dệt hơn, tuy nhiên nó có thể biến đổi ít nhiều tùy theo giống và điều kiện ngoại cảnh. Vết bệnh từ mép lá, mút ls lan dần vào trong phiến lá hoặc kéo dài theo gân chính, nhưng cũng có vết bệnh từ ngay giữa phiến lá lan rộng ra. Vết bệnh lan rộng theo đường gợn sóng màu vàng, mô bệnh xanh tái, vàng lục, lá nâu bạc, khô xác.
Kết quả nghiên cứu của Bộ môn bệnh cây - Trường Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam cho thấy: Có 2 loại hình triệu chứng của bệnh bạc lá lúa: Bạc lá gợn vàng và bạc lá tái xanh. Loại bạc lá gợi vàng phổ biến trên hầu hết các giống và các mùa vụ, còn loại hình bạc lá tái xanh thường chỉ xuất hiện trên 1 số giống lúa, đặc biệt đối với các giống lúa ngắn ngày, chịu phân, phiến lá to, thế lá đứng, ví dụ như giống T1, X1, NN27,...
- Thông thường ranh giới giữa mô bệnh và mô khỏe được phân biệt rõ ràng, có giới hạn theo đường gợn sóng màu vàng hoặc không vàng, có khi chỉ là một đường viền màu nâu đứt quãng hay không đứt quãng.
- Cắt bỏ những đoạn vết bệnh dài 3 - 5cm, quấn bông thấm nước thành từng bó nhỏ đặt vào cốc nước vô trùng hoặc nước muối sinh lý 0,85% ngập 2/3. Trên cốc đậy nắp kín. Sau 2 - 3 giờ nếu trên các mô lá bệnh xuất hiện các giọt dịch nhỏ màu hơi vàng trên đầu lát cắt, đó là biểu hiện bệnh bạc lá vi khuẩn.
- Trong điều kiện nhiệt độ, ẩm độ cao, trên bề mặt vết bệnh dễ xuất hiện những giọt dịch vi khuẩn hình tròn nhỏ, có màu vàng đục, khi keo đặc rắn cứng có màu nâu hổ phách. Chú ý dễ nhầm lẫn với bệnh vàng lá, khô đầu lá do sinh lý. Vì thế, việc chuẩn đoán nhanh nên áp dụng phương pháp giọt dịch.
Đặc điểm phát sinh, phát triển bệnh, mức độ lây lan của bệnh bạc lá lúa
Ở miền Bắc nước, bệnh có thể phát sinh phát triển ở tất cả các vụ trồng lúa. Vụ chiêm xuân, bệnh thường phát sinh vào tháng 3 - 4, phát triển mạnh hơn vào tháng 5 - 6 khi mà lúa chiêm xuân trỗ và chín, xong ở vụ chiêm xuân trỗ và chín, song ở vụ chiêm xuân mức độ bị bệnh thường nhẹ hơn, tác hại ít hơn so với vụ mùa trừ 1 số giống lúa xuân cấy muộn, nhiễm bệnh ngay từ khi lúa làm đòng thì tác hại của bệnh có thể sẽ lớn.
- Bệnh bạc lá lúa thường phát sinh và gây tác hại lớn trong vụ mùa. Bệnh có thể phát sinh sớm vào tháng 8, khi lúa để đến khi lúa làm đòng, trỗ - chín sớm sữa với các trà lúa sớm. Đối với các giống lúa mẫm cảm bệnh thường bị bệnh bệnh rất sớm và khá nặng, giảm năng suất nhiều. Các trà lúa cấy muộn trỗ vào tháng 10 thường bị bệnh nhẹ hơn, tác hại của bệnh cũng ít hơn.
- Nhìn chung, bệnh phát triển mạnh vào giai đoạn cây lúa dễ nhiễm bệnh nhất, đó là lúc lúa làm đòng và chín sữa.
- Bệnh phát sinh phát triển mạnh và truyền lan nhanh trong điều kiện từ 26 - 30 độ C, ẩm độ cao từ 90% trở lên. Nếu nhiệt độ đảm bảo cho bệnh phát triển, thì ẩm độ, lượng mưa lớn có ý nghĩa quyết định đến mức độ bị bệnh. Những đợt mưa tháng 8 không những tạo vết thương trên lá mà còn làm cho vi khuẩn sinh sản nhanh, số lượng keo vi khuẩn hình thành nhiều, tạo điều kiện cho sự xâm nhiễm và truyền lan nhanh chóng.
Kỹ thuật trồng trọt là 1 trong những điều kiện quan trọng ảnh hưởng đến sự phát sinh phát triển của bệnh. Những vùng đất màu mỡ, nhiều chất hữu cơ, bệnh thường phát triển nhiều hơn ở chân đất xấu, cằn cỗi. Phân đạm vô cơ có ảnh hưởng rõ rệt tới sự phát sinh phát triển của bệnh. Các dạng đmạ vô cơ dễ làm cho cây lúa nhiễm bệnh mạnh hơn đạm hữu cơ, phân xanh bón vùi giập cũng làm cho lúa nhiễm bệnh mạnh hơn phân chuồng ủ hoai mục.
- Nếu bón quá nhiều đạm, cây lúa xanh tốt, thân lá mềm yếu, hàm lượng đạm tự do trong cây tích lũy cao thì cây dễ nhiễm bệnh nặng. Ở vụ xuân, có thể bón đạm với số lượng cao hơn vụ mùa. Bón phân sâu, bón tập trung, bón nặng đầu nhẹ cuối, bón thúc sớm, bón thúc sớm làm cho cây lúa để nhánh tập trung, đẻ nhanh thì bệnh bạc lá sẽ nhẹ hơn so với bón phân rải rác và bón muộn. Nếu bó đạm cân đối, tuy nhiên khi đã bón với lượng đạm quá cao (120 - 150 N/ha) thì dù có bón thêm kali và lân tác dụng với bệnh cũng không thể hiện rõ rệt.
- Ở những nơi đất chua, úng ngập nước hoặc mực nước sâu, đặc biệt là những vùng đất hẩu, nhiều mùn, hàng lúa bị bóng cây che phủ bệnh bạc lá có thể phát triển mạnh hơn.
Nói chung, thời kỳ mạ đến lúa đẻ nhánh là thời kỳ bệnh tương đối ít hơn so với giai đoạn cuối đẻ nhánh. Giai đoạn lúa làm đòng - trỗ - chín sữa là giai đoạn mẫn cảm với bệnh, hiện tượng này thể hiện khá rõ nét trên các giống lúa ngắn ngày phàm ăn chịu phân có năng suất cao cấy trong vụ chiêm xuân và vụ mùa.
Các biện pháp giúp phòng trừ bệnh bạc lá hại lúa
- Làm đất kỹ, vệ sinh đồng ruộng, dọn sạch tàn dư cây bệnh đem đốt hoặc vùi sâu cho ngấu để diệt nguồn bệnh.
- Việc bón phân phù hợp có tác dụng hạn chế sự phát triển của bệnh. Bón cân đối NPK. Bón lót sâu, bón đạm gọn, không bón muộn và kéo dài. Ưu tiên bón nhiều kali cho các giống dễ nhiễm bệnh bạc lá. Việc bón kali có tác dụng hạn chế bệnh tuy nhiên không nên bón vào lúc lúa đứng cái sẽ dễ bị bạc lá.
- Tưới tiêu nước hợp lý không để mực nước trên ruộng lúa quá lớn.
- Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng nhất là sau những trận mưa, giông, bão. Khi thấy bệnh xuất hiện phải dừng việc bón phân đạm, không phun các chất kích thích sinh trưởng, các loại phân bón lá.
- Dùng giống có gen kháng hoặc ít nhiễm bệnh bạc lá lúa để đưa vào gieo cấy. ( theo Viện nghiên cứu cây lương thực và cây thực phẩm thì giống lúa Bắc Thơm số 7 và TBR 225 có khả năng kháng bệnh bạc lá lúa).
- Tùy theo điều kiện của từng vùng để bố trí thời vụ gieo cấy hợp lý để giai đoạn lúa – đòng trổ – chín vào thời gian ít bị ảnh hưởng của mưa bão. Vì đây là giai đoạn mưa nhiều, nóng ẩm, nhiệt độ cao. Dễ gây thiệt hại nghiêm trọng đến năng suất cũng như chất lượng lúa.